Xử lý nước lợ thành nước ngọt cho sinh hoạt và nấu ăn.

Nước nhiễm lợ là nguồn nước có vị mặn của muối nhưng không đến mức mặn như nước biển. Đây chính là nguồn nước pha trộn giữa nước biển & nước ngọt, thường thấy nhất ở những vùng cửa sông hoặc các vùng thổ nhưỡng có một số muối. Có một số rất ít nước lợ do con người tạo ra (nuôi tôm & một vài loài hải sản).

Dấu hiệu kỹ thuật để nhận ra dòng nước nhiễm mặn, nước lợ là số lượng muối trong mỗi lít nước – thường đo được trong khoảng 0,5 – 30gram (0,5 – 30o/oo). Do có chứa muối nên nước lợ nặng hơn nguồn nước ngọt .

Nồng độ muối của mỗi nguồn nước thay đổi tùy vào mùa, theo thủy triều.

  • Cách xử lý nước nhiễm lợ thành nước ngọt.

Xử lý nước lợ cũng như việc xử lý nước nhiễm phèn trong các mùa hạn hán, là việc làm hết sức cần thiết để cung cấp nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và đời sống. Sự khan hiếm nước ngọt tự nhiên ngày càng diễn ra nghiêm trọng trong điều kiện khí hậu biến đổi, trái đất nóng dần. Mỗi năm mùa hạn kéo dài thêm, lượng nước mất đi do bay hơi, lượng nước thất thoát do sự lãng phí, lượng nước bị tác động làm ô nhiễm,… tất cả đã, đang và sẽ đẩy cuộc sống con người vào thực trạng thiếu nước trầm trọng.

  • Công nghệ xử lý nước lợ.

Công nghệ xử lý nước lợ tương tư như xử lý nước nhiễm mặn. Đặc tính chung của nước lợ và nước nhiễm mặn là nồng độ muối hòa tan cao hơn nước ngọt thông thường nhưng thấp hơn nhiều so với nước mặn.

                        Hệ Thống Xử Lý Nước Nhiễm Lợ
  • Thuyết minh quy trình công nghệ xử lý nước lợ.

Nước lợ được bơm từ nguồn nước (sông, rạch) đến bể lắng cát, song chắn rác ( SCR ) có nhiệm vụ loại bỏ rác kích thước lớn bị cuốn theo trước khi nước đổ vào bể lắng cát. Bể lắng cát sẽ có đủ thời gian lưu để loại bỏ cát, đất, sỏi và các vật nặng dễ lắng. Nguồn nước lợ chủ yếu là sông, rạch lớn gần cửa biển và nước thường dao động nên bùn đất, phù sa và chất lơ lững tương đối nhiều, do đó bố trí bể lắng cát là phù hợp.

Từ bể lắng cát, nước sẽ tự chảy qua bể trung gian thứ 1. Bể trung gian thứ 1 có chức năng tập trung và ổn định nước nhanh để bơm lên các công trình trên cao hoặc không tự chảy được.

Từ bể trung gian nước được bơm lên bể phản ứng keo tụ để thực hiện quá trình keo tụ và hình thành bông cặn dễ lắng. Chất keo tụ và trợ keo tụ được châm phổ biến là PAC (Poly-Aluminimum Chloride), Phèn nhôm , Phèn sắt và Polimer, dung dịch xút NaOH được dùng để điều chỉnh pH. Sau khi hình thành bông cặn, nước sẽ tự chảy sang bể lắng.

Bể lắng có thời gian lưu phù hợp để tạo điều kiện cho các bông cặn lắng xuống đáy bể. Nước trong sẽ tràn qua máng và theo ống thu xuống bể trung gian thứ 2.

Bể trung gian thứ 2 cũng có chức năng tập trung nước để bơm lên bể khử cứng.

Bể phản ứng khử cứng có vai trò làm mềm nước, khử các ion Ca2+, Mg2+ tạo kết tủa dễ lắng. Hóa chất sử dụng tham gia phản ứng như Vôi, Sođa, Polimer được châm vào bằng bơm định lượng. Nước được làm mềm xong tiếp tục chảy sang bể lắng thứ 2 để lắng kết tủa. Nước sau lắng tiếp tục tự chảy vào bể trung gian thứ 3 và được bơm lên các bồn lọc.

Bồn lọc đầu tiên sử dụng vật liệu lọc là than hoạt tính, có tác dụng hấp phụ và khử độc trong nước. Bồn lọc thứ 2 với vật liệu lọc là hạt nhựa trao đổi ion với chức năng tối ưu hóa quá trình làm mềm nước. Bồn lọc thứ 3 và 4 là bồn lọc tinh sử dụng lõi lọc 10 micron và 5 micron. Cuối cùng là thiết bị lọc màng bán thấm RO (Reverse Osmosis – thẩm thấu ngược).

Sau khi được lọc kỹ qua các bồn lọc, Cl2 được châm trên đường ống đổ vào bể chứa nước sạch để khử trùng và bảo quản nước khỏi nhiễm khuẩn. Nước lợ sau quá trình xử lý đã được làm sạch, khử mặn, khử cứng và khử trùng, đạt tiêu chuẩn nước sử dụng cho sinh hoạt, nấu ăn.

Mọi thắc mắc bạn có thể liên hệ với chúng tôi qua số 0902. 975. 550 để được tư vấn miễn phí.

Tham khảo thêm: Công trình hệ thống lọc nước tinh khiết.